Trong bối cảnh năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời ngày càng được ứng dụng rộng rãi, việc quản lý và xử lý pin năng lượng mặt trời sau khi hết vòng đời sử dụng đang trở thành một thách thức lớn. Những vấn đề như ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên và thiếu hụt các quy trình tái chế hiệu quả đòi hỏi sự nghiên cứu và đề xuất các giải pháp bền vững. GS. Huỳnh Trung Hải - Hiệu trưởng Trường Vật liệu, Đại học Bách khoa Hà Nội - đã nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý, xử lý pin năng lượng mặt trời nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu tác động xấu tới môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam cam kết sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính để đạt mức phát thải ròng bằng “0” (gọi tắt là Net Zero) vào năm 2050. Vì vậy, vấn đề sử dụng năng lượng tái tạo là vô cùng quan trọng.
GS. Huỳnh Trung Hải (giữa) tham dự hội thảo khoa học tại Đại học Cần Thơ
Trong các dạng năng lượng tái tạo, năng lượng mặt trời là nguồn năng lượng rất lớn. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong vùng gần xích đạo nên thời gian chiếu sáng của mặt trời rất cao. Theo thông lệ, để tạo ra 1 MW, ta cần tấm pin quang năng diện tích 1 héc-ta. Nhà sản xuất khuyến cáo sau 20 - 25 năm làm việc, hiệu suất chuyển hoá từ năng lượng mặt trời thành điện của pin quang năng sẽ thấp đi và cần được thay thế. Từ đó, những tấm pin quang năng cũ có diện tích và khối lượng lớn sẽ trở thành rác thải. Tuy nhiên, nếu biết cách quản lý và xử lý một cách phù hợp thì sẽ là tài nguyên.
Công trình nghiên cứu của GS. Huỳnh Trung Hải là lời giải cho 3 bài toán: Thứ nhất, những tấm pin quang năng này có phải là rác thải nguy hại không; Thứ hai, khuyến cáo các công nghệ để xử lý tấm pin quang năng nhằm thu hồi vật liệu; Thứ ba, đưa ra các giải pháp quản lý theo mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất.
Pin năng lượng mặt trời
Theo kết quả phân tích thành phần hóa học, “Những tấm pin quang năng này không phải là chất thải nguy hại cho môi trường.” – GS. Huỳnh Trung Hải khẳng định.
Nhà khoa học Bách khoa Hà Nội đưa ra lộ trình tới năm 2035 sẽ nghiên cứu các công nghệ thu hồi vật liệu từ chất thải của pin năng lượng mặt trời. Tiếp nối đề tài này, một số thầy, cô trong nhóm nghiên cứu của thầy Hải đang kết hợp với các nhà khoa học Hàn Quốc xây dựng thuyết minh đề tài theo dạng nghị định thư.
Theo Hiệu trưởng Trường Vật liệu, cái khó nhất trong nghiên cứu nói chung và đề tài đang triển khai nói riêng là ý tưởng, cách tiếp cận và phương pháp triển khai. Ông cho rằng giai đoạn đầu tiên khi nghiên cứu luôn là giai đoạn khó khăn nhất. Tiếp đó, đối với đề tài này, các nhà khoa học cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để có thể khảo sát, thu thập thông tin và lấy mẫu.
Công tác tại Đại học Bách khoa Hà Nội 31 năm, GS. Hải có những mối quan hệ sâu sắc với các sở/ ban/ngành của các địa phương cũng như doanh nghiệp. Từ đó, thầy dễ dàng tiếp cận với các doanh nghiệp trong lĩnh vực Vật liệu. Các đơn vị luôn ủng hộ và phối hợp với các nhà khoa học Bách khoa bởi cùng mong muốn giải quyết bài toán về chất thải. Đây là mối quan hệ tương hỗ - đôi bên cùng có lợi.
GS. Huỳnh Trung Hải chia sẻ những kết quả từ nghiên cứu của thầy dành cho cộng đồng sử dụng, không nhằm mục đích thương mại hoá. Hiệu trưởng Trường Vật liệu đề cao trách nhiệm xã hội của một nhà khoa học.
Sau đề xuất giải pháp quản lý, xử lý pin năng lượng mặt trời, GS. Huỳnh Trung Hải tiếp tục tập trung vào tái chế thu hồi kim loại từ ắc quy lithium (hay còn gọi là pin Li-on).
Hiện nay, pin Li-on thường được ứng dụng trong các thiết bị điện tử như: Điện thoại, máy ảnh, máy tính, phương tiện di chuyển (xe điện, xe máy,...), kỹ thuật hàng không,... Sau một số chu kỳ nạp, xả hoạt động của ắc quy giảm, cần được xử lý bằng cách thu hồi vật liệu theo hướng kinh tế tuần hoàn, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, góp phần phát triển xanh, phát triển bền vững.
Nhà khoa học Bách khoa nhấn mạnh: Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, mỗi cá nhân cần tăng ý thức bảo vệ và xây dựng xã hội xanh, sạch, đẹp.
Pin năng lượng mặt trời sau khi hết vòng đời sử dụng
Đề xuất một số giải pháp thay thế túi nilon, GS. Huỳnh Trung Hải đề cập đến chiếc làn, giỏ truyền thống của các thế hệ trước. Bên cạnh đó, các loại lá, lạt dẻo dai và bền bỉ của Việt Nam cũng rất thích hợp để đóng gói thực phẩm hàng ngày.
Giải thích về tác hại của túi nilon và vi nhựa, thầy Hải cho biết: Chúng ta đã nghe nhiều về ô nhiễm vi nhựa, khi chúng ta tiêu thụ những thực phẩm có chứa vi nhựa đồng nghĩa với việc ta đang đưa vi nhựa vào cơ thể, không tốt cho sức khỏe.
Những đề tài về xử lý chất thải, bảo vệ môi trường và thúc đẩy triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn - hướng nghiên cứu chính của GS. Huỳnh Trung Hải tập trung giải quyết các vấn đề, quan tâm chung của toàn xã hội.
Giá trị cốt lõi của Đại học Bách khoa Hà Nội nêu cao tinh thần trách nhiệm: “Sự tận tụy, cống hiến hết mình làm nên giá trị cao quý nhất của các thế hệ cán bộ và sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội. Bên cạnh trách nhiệm với người học, Đại học Bách khoa Hà Nội phải có vai trò phát hiện những lĩnh vực rất cần thiết cho đất nước, thực hiện trách nhiệm với xã hội.”
Với cam kết trách nhiệm xã hội cao nhất, người Bách khoa luôn cố gắng đào tạo và nghiên cứu, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Cùng Trường Vật liệu, các đơn vị khác của Đại học Bách khoa Hà Nội đang tích cực nghiên cứu về năng lượng sạch, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Điển hình là một số đề tài: “Nghiên cứu chế tạo vật liệu lọc xốp nano trên nền nanocellulose và nanocellulose acetate, ứng dụng khử mặn nước” của Trường Hoá và Khoa học sự sống; đề tài “Tự động hóa quá trình cấp phát tài nguyên điện toán biên - mây tiết kiệm và hiệu năng cao bằng công nghệ điện toán phi máy chủ kết hợp học tăng cường” của Trường Điện – Điện tử; đề tài “Phát triển các phương pháp tìm kiếm Monte-Carlo Tree Search: Tối ưu hóa hiệu quả, khả năng khai phá và tính bền vững” của Trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông;...
Những nghiên cứu này đều hướng đến bảo vệ môi trường, xây dựng một thế giới phát triển bền vững, hoạt động hiệu quả.